Thị trường nhuyễn thể: Sò điệp Nhật Bản xuất sang Việt Nam tăng trưởng bùng nổ (01-10-2025)

Năm 2024, nguyên liệu sò điệp đông lạnh của Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam tăng vọt (+1.969%) lên 28.000 tấn. Theo số liệu thống kê mới nhất, tháng 5/2025, lượng sò điệp Nhật Bản xuất sang Việt Nam là 589 tấn (+1.600%  so với tháng 5/2024).
Thị trường nhuyễn thể: Sò điệp Nhật Bản xuất sang Việt Nam tăng trưởng bùng nổ
Ảnh minh họa

Báo cáo của Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên hợp quốc (FAO), nhuyễn thể hai mảnh vỏ (sò điệp, vẹm, hàu, ngao) tiếp tục được ưa chuộng ở tất cả các nước tiêu thụ lớn (vì tốt cho sức khỏe con người và có lợi với môi trường biển). Tuy nhiên, sản lượng toàn cầu đang bị ảnh hưởng nặng nề bởi các vấn đề đáng lo ngại ở các nước sản xuất chính như: biến đổi khí hậu, sự săn mồi của các loài địch hại và sự bùng phát của các loài tảo độc… Do đó, FAO nhận định năm 2025 giá của tất cả các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ đều tăng.

Thương mại vẹm trên toàn thế giới tăng mạnh. Quý 1 năm 2025 đạt 100.000 tấn, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước; chủ yếu do xuất khẩu tăng từ Chile và Vương quốc Hà Lan, cả hai đều tăng khối lượng xuất khẩu khoảng 6.000 tấn mỗi năm. Chile tiếp tục là nhà cung cấp vẹm chính trên thế giới, chủ yếu xuất sang Tây Ban Nha và Pháp. Vương quốc Hà Lan đã vượt qua Tây Ban Nha để trở thành nước xuất khẩu vẹm lớn thứ hai, trong khi Ý và Pháp vẫn là hai nước nhập khẩu vẹm lớn nhất thế giới.

Tháng 7 năm 2025, vẹm Bouchot tại Pháp vào mùa với nguồn cung dồi dào. Nhìn chung những năm gần đây, tiêu thụ nội địa cao nhưng khối lượng xuất khẩu cũng tăng trưởng đều đặn - Pháp xuất khẩu hàng trăm tấn mỗi năm. Các công thức nấu ăn truyền thống phổ biến ở Pháp bao gồm vẹm ướp với rượu vang trắng và tỏi, vẹm chiên ăn kèm khoai tây chiên giòn và vẹm nướng ăn với rau thơm và chanh.

Cũng trong quý 1 năm 2025, thương mại hàu toàn cầu tăng lên, đạt 22.000 tấn. Đáng ngạc nhiên, Malaysia đã vượt qua Pháp để trở thành nước xuất khẩu hàu lớn nhất thế giới. Khoảng 3.900 tấn đã được xuất khẩu từ nước này (so với 600 tấn cùng kỳ năm trước). Mỹ là nước nhập khẩu hàu chính với lượng mua ổn định.

Năm 2025, giá trị thương mại hàu toàn cầu dự kiến ​​đạt 9,77 tỷ USD, trong đó Pháp đóng góp đáng kể. Pháp là một trong những nhà sản xuất hàu lớn nhất châu Âu. Thị trường hàu của Pháp được FAO nhận định sẽ tăng trưởng trong giai đoạn 2025 - 2029. Được hỗ trợ bởi các hoạt động nuôi trồng thủy sản bền vững, sự tăng trưởng này càng được thúc đẩy bởi nhu cầu ngày một càng tăng đối với mặt hàng hàu cao cấp. Tuy nhiên, giá hàu tươi tại Pháp được dự báo giảm nhẹ từ 1,82 euro/kg năm 2024 xuống còn 1,73 euro/kg vào năm 2025. Nhu cầu hàu hữu cơ và có nguồn gốc rõ ràng đang ngày càng tăng, cùng với sự gia tăng doanh số bán hàng trực tuyến và sản phẩm đóng gói sẵn. Những thách thức lớn bao gồm biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, đang ảnh hưởng đến các bãi hàu.

Hiện tại, thương mại ngao thế giới do Trung Quốc thống trị, chiếm khoảng một nửa nguồn cung toàn thế giới. Trong quý 1 năm 2025, thương mại ổn định ở mức 73.000 tấn. Hàn Quốc và Nhật Bản tiếp tục là những nước nhập khẩu chính. Trái ngược với các sản phẩm nhuyễn thể hai mảnh vỏ khác, châu Âu không đóng vai trò quan trọng trong thương mại ngao.

Cuộc khủng hoảng cua xanh tiếp tục tác động đến ngành hàng ngao ở Ý. Sản lượng ngao giảm mạnh (thậm chí tới 100%) do sự săn bắt của loài cua xanh. Kế hoạch Quốc gia 2025–2026 trị giá 10 triệu euro của Chính phủ Ý bao gồm các biện pháp như đánh bắt chọn lọc cua cái đẻ trứng để ngăn chặn chu kỳ sinh sản. Hàng rào và các công cụ đặc biệt cũng đang được sử dụng để bảo vệ các trang trại nuôi ngao. Ngoài ra, Ý cũng lên kế hoạch sử dụng cua xanh vào chuỗi cung ứng mới, với các công thức nấu ăn cao cấp. Tuy nhiên, đây là quá trình đòi hỏi chi phí cao. Ý có thể học hỏi từ kinh nghiệm của Tunisia, nơi cua xanh đã hiện diện trong hơn 10 năm qua.

Tại Tunisia, tình trạng cua xanh đã chuyển từ “vấn đề sinh thái khẩn cấp” sang “cơ hội kinh tế”. Tunisia đã áp dụng mô hình đổi mới, mang lại những kết quả đáng kinh ngạc. Ngày nay, cua xanh đã trở thành một nguồn phát triển kinh tế, sản phẩm chế biến được xuất khẩu sang châu Á và Cận Đông. Các loại bẫy chọn lọc đang được sử dụng để hạn chế tác động môi trường và bảo vệ lưới đánh cá. Sự tham gia của ngư dân, các công ty và tổ chức vào chiến lược chuỗi cung ứng tích hợp là rất quan trọng. Tunisia đã chứng minh rằng, với các chính sách công có mục tiêu, có thể kiểm soát được sự xâm lấn của các loài địch hại và tạo việc làm cho người dân. Mô hình của Tunisia hiện đang được các nước Địa Trung Hải (như Ý) tập trung nghiên cứu, áp dụng.

Tổng kim ngạch xuất khẩu sò điệp toàn thế giới giảm (do xuất khẩu của Nhật Bản giảm). Trong quý 1 năm 2025, Trung Quốc đã vượt qua Nhật Bản trở thành nước xuất khẩu sò điệp lớn nhất thế giới, với sản lượng khoảng 10.000 tấn; trong khi Nhật Bản xuất khẩu 8.600 tấn, giảm khoảng 3.000 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Mỹ là thị trường chính, tăng nhập khẩu thêm 4.000 tấn, đạt 10.650 tấn.

Trung Quốc chiếm 2/3 tổng sản lượng sò điệp toàn cầu. Sự thống trị của Trung Quốc là nhờ hoạt động nuôi trồng thủy sản quy mô lớn, cùng với kỹ thuật ương giống và nuôi treo tiên tiến. Thị trường sò điệp tại Trung Quốc đang tăng trưởng ổn định, nhờ những đổi mới công nghệ trong nuôi trồng thủy sản và nhu cầu tiêu dùng hải sản cao cấp ngày càng tăng, đặc biệt là ở các thành thị và nhóm dân số quan tâm nhiều đến sức khỏe. Tiêu thụ nội địa tăng vọt lên 34.000 tấn (năm 2024, tăng 20% ​​so với năm trước). Tính đến giữa năm 2025, Trung Quốc đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm nhập khẩu hải sản Nhật Bản (trong đó có sò điệp) nhưng vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. 

Hiện Trung Quốc đã cho phép nhập khẩu 449 mặt hàng hải sản từ 37/47 tỉnh thành của Nhật Bản, đồng nghĩa với việc lệnh cấm vẫn còn hiệu lực đối với 10 tỉnh thành khác do những lo ngại về việc xả nước đã qua xử lý từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi. Trước khi có lệnh cấm này, hơn một nửa lượng sò điệp xuất khẩu của Nhật Bản được nhập khẩu vào Trung Quốc. Năm 2024, kim ngạch xuất khẩu này bằng “0”. Để ứng phó với lệnh cấm của Trung Quốc, các nhà sản xuất Nhật Bản đã tích cực theo đuổi các thị trường thay thế (như Mỹ, Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác).

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP): Năm 2024, nguyên liệu sò điệp đông lạnh của Nhật Bản xuất khẩu sang Việt Nam tăng vọt (+1.969%) lên 28.000 tấn; lượng hàng xuất khẩu sang Thái Lan cũng tăng (+984%) lên 7.800 tấn; lượng hàng xuất khẩu sang Indonesia cũng tăng (+646%) lên 2.500 tấn.

5 tháng đầu năm 2025, Nhật Bản đã xuất khẩu 5.600 tấn thịt sò điệp đông lạnh, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2024. Giá trị xuất khẩu đạt 22,69 tỷ yên, tăng tới 70%, nhờ giá trung bình tăng mạnh 56% lên mức 4.060 yên/kg. 5 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu sang Mỹ 1.600 tấn thịt sò điệp đông lạnh (+9%) với giá bán trung bình tăng gấp đôi lên 5.800 yên/kg. Tuy nhiên, trong tháng 5/2025, giá đã giảm 13% so với tháng trước. Thị trường đang bị chi phối bởi tâm lý chờ đợi và quan sát, trong bối cảnh chính quyền Trump có thể đưa thêm các biện pháp thuế quan khác. Ngược lại, xuất khẩu sang Việt Nam ghi nhận mức tăng trưởng bùng nổ. Riêng tháng 5, Nhật Bản xuất sang Việt Nam lượng sò điệp nguyên vỏ đạt 589 tấn (+1.600% so với tháng 5/2024); trước đó mức tăng trưởng này là +430% vào tháng 4/2025. Giá xuất khẩu trung bình của mặt hàng sò điệp nguyên vỏ là 678 yên/kg.

Theo Chuyên trang Cơ hội giao thương của Báo Công Thương, Việt Nam hiện có nhiều nhà máy chế biển thủy sản (trong đó có sò điệp), có sẵn kinh nghiệm sản xuất. Vì vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản đã chọn Việt Nam làm nơi gia công, chế biến; sau đó xuất khẩu sò điệp đến các thị trường khác (như ASEAN, Mỹ).

Giá sò điệp Nhật Bản giảm trong bối cảnh bất ổn thuế quan từ Mỹ

Theo VASEP, thị trường sò điệp Nhật Bản đang chứng kiến xu hướng giá giảm, đặc biệt là đối với các lô hàng xuất khẩu sang Mỹ – một trong những thị trường tiêu thụ chủ lực mặt hàng sò điệp của Nhật Bản. Sau khi Mỹ áp thuế đối với hàng hóa nhập khẩu từ Nhật Bản, nhu cầu tiêu thụ sò điệp tại thị trường Mỹ sụt giảm rõ rệt, kéo theo đà giảm giá từ mức đỉnh đã được thiết lập trước đó. Cụ thể, theo số liệu thống kê 5 tháng đầu năm 2025, giá trung bình của mặt hàng sò điệp Nhật Bản xuất khẩu đến thị trường các nước là 4.060 yên/kg. Sau khi chạm đỉnh vào tháng 3/2025, giá xuất khẩu đã liên tiếp giảm trong các tháng 4 và 5 – đặc biệt tại thị trường Mỹ, giá tháng 5 giảm 13% so với giá tháng 4.

5 tháng đầu năm 2025, Nhật Bản xuất khẩu 8.300 tấn sò điệp đông lạnh còn vỏ, giảm mạnh 37% so với cùng kỳ năm ngoái, với giá trung bình khoảng 600 yên/kg. Hokkaido là vùng sản xuất sò điệp lớn nhất Nhật Bản (gồm cả nuôi và khai thác). Hokkaido chủ yếu cung cấp loại sò điệp cỡ nhỏ; trong đó, loại cỡ 5S chiếm tới 40% tổng sản lượng. Trước tình hình giá yếu và sức mua giảm, nhiều nguyên liệu thô có thể sẽ được chuyển hướng xuất khẩu sang các nước Đông Nam Á (như Việt Nam).  

Tại thị trường nội địa Nhật Bản, các chuỗi nhà hàng sushi và bán lẻ lớn thường sử dụng sò điệp cỡ 3S, nhưng hiện tại một số đơn vị đã bắt đầu chuyển sang sử dụng sò điệp Trung Quốc nhằm tối đa hóa lợi nhuận.

Tháng 6/2025, sản lượng khai thác sò điệp tại Hokkaido ghi nhận xu hướng tăng. Tuy nhiên, lũy kế 6 tháng, sản lượng khai thác này chỉ đạt 92.400 tấn – giảm 6% so với cùng kỳ năm trước; hoàn thành 35% kế hoạch cả vụ. Đáng chú ý là, phần lớn sò điệp thu hoạch được đều có kích cỡ nhỏ (5S và 6S). Một trong những đơn vị khai thác lớn trong vùng đã đặt giá bán trung bình ở mức 326 yên/kg, tăng 60% so với năm trước. Một số hợp tác xã khác trong khu vực cũng tăng giá từ 40–50%, phản ánh chi phí đầu vào cao; kỳ vọng thị trường sò điệp hồi phục trong những tháng cuối 2025.

Tính đến cuối tháng 7/2025, sản lượng khai thác sò điệp Yesso tại tại vùng Okhotsk, Hokkaido đạt khoảng 145.400 tấn – giảm 9% so với cùng kỳ năm trước; hoàn thành 54% kế hoạch đánh bắt cả năm của khu vực. Giá bán tại cảng đang tăng mạnh. Đầu tháng 7/2025, giá sò điệp tại Sarufutsu dao động từ 323 đến 344 yên/kg, trung bình 327 yên/kg, cao hơn khoảng 60% so với cùng kỳ năm 2024. Cuối tháng 7, Tokoro và Saroma ghi nhận mức giá cao nhất - lên tới 381 yên/kg.

Chất lượng sò điệp có sự khác biệt giữa các ngư trường, với kích cỡ thịt phổ biến từ loại nhỏ 5S đến loại lớn hơn 3S. Năng suất thịt (tức tỷ lệ giữa trọng lượng cơ và tổng trọng lượng vỏ) dao động từ khoảng 11% đến gần 12% tùy vùng, cho thấy tiềm năng thương mại vẫn ở mức cao.

Dự báo

Các chuyên gia kinh tế Mỹ nhận định, các loại sò điệp cỡ nhỏ sẽ tiếp tục thu hút khách do người mua đang có xu hướng tìm kiếm những lựa chọn tiết kiệm hơn.

FAO dự báo năm 2025 sản lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ trên toàn thế giới giảm (mặc dù có một số khía cạnh tích cực như sự phục hồi sản lượng vẹm Chile và hàu Pháp). Giá nhuyễn thể hai mảnh vỏ tiếp tục tăng cao hơn nữa do nhu cầu mạnh mẽ ở tất cả các thị trường chính trên thế giới.

Ngọc Thúy – FICen

Ý kiến bạn đọc

Tin khác